27 tháng 9, 2024

Người thấy

Bạn thân mến. Chúng ta thường hiểu darshan là thấy sự thánh thiện. Thông thường, mọi người hiểu lầm rằng đó là thoáng thấy một Nhân cách vĩ đại. Nhưng chỉ khi tìm thấy một Nhân cách như vậy bên trong chính mình, bạn mới có thể nhìn thấy Ngài ở bên ngoài. 


Khi chúng ta đến thăm Pujya Babuji ở Shahjahanpur, chúng ta thấy Ngài theo góc nhìn của mình và thông qua bộ lọc của mình. Nhiều người chỉ nhìn thấy ở Babuji một ông lão ngồi hút thuốc (hookah), và họ bỏ chạy. Chúng ta thường nhìn thấy mọi người được phản chiếu trong tấm gương tâm của mình. Nếu gương tâm của chúng ta trong trẻo, sự phản chiếu sẽ là chân thực, trong khi nếu gương của chúng ta không trong trẻo hoặc bị méo mó, sự phản chiếu sẽ bị pha lẫn với những phẩm tính, ý tưởng, ham muốn, khiếm khuyết và bản sắc riêng của chúng ta. Rồi chúng ta đánh giá sự phản chiếu đó, thích hoặc không thích nó theo bộ lọc và mức độ hiểu biết của chúng ta dựa trên sự điều kiện hoá phát sinh từ samskara.

Bạn đánh giá một vị thầy như thế nào khi mới bắt đầu mối quan hệ với ông? Khi bạn thực hành trong một thời gian những gì thầy quy định, hãy xem liệu việc thực hành có bắt đầu mang lại cho bạn bình yên và sự biến đổi bên trong hay không. Nếu vậy, hãy tiếp tục và xem bạn có được lợi ích như thế nào thông qua sự biến đổi về tính cách.

Khi đến thăm bất kỳ một vị thầy nào, vị thầy đó sẽ trông có vẻ chân chính, không chân chính hoặc ở khoảng giữa dựa trên sự điều kiện hóa và sự sáng tỏ về tầm nhìn của chúng ta. Nhận thức của chúng ta về sự thánh thiện có xu hướng bị chi phối bởi sự nuôi dạy và hoàn cảnh. Ví dụ, nếu một người nhìn thấy một quý ông mặc toàn đồ trắng, anh ta có thể nghĩ, “Quý ông này thật thuần khiết và mộ đạo.” Nhưng một người Vaishnavite hay một người Hồi giáo có đánh giá tương tự đối với một vị Jain Muni trong hình dạng loã thể không? Chỉ khi chúng ta thoát khỏi sự điều kiện hóa phát sinh từ samskara, chúng ta mới có thể thấy. Để có darshan, chúng ta không thể dùng mắt thường; chiếc áo choàng thánh thiện có thể đánh lừa chúng ta. Tương tự như vậy, chúng ta có thể dễ dàng bỏ lỡ sự hiện diện của một người thánh thiện trong số chúng ta. Hãy tưởng tượng một người đang thực hiện yoga jnana hoặc asana hoàn hảo. Họ quá say mê thực hành đến nỗi phớt lờ sự hiện diện của một người toàn hảo ở đỉnh cao của bhakti (sùng kính) như Mirabai. Làm sao họ có thể nhận ra cô ấy khi một người ở rất cao, và một người ở rất thấp?

Có một câu chuyện hay về một vị thánh Sufi. Một vị vua muốn được vị thánh Sufi khai tâm, nhưng vị Sufi cứ trì hoãn (vị Sufi hẳn đã hiểu được thực trạng của nhà vua). Thời gian trôi qua, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, nhà vua ngày càng thất vọng vì vị Sufi liên tục từ chối khai tâm cho mình. Cuối cùng, nhà vua quyết định kiểm tra xem vị Sufi này là chân chính hay giả mạo. Nhà vua cài mật thám để theo dõi hành vi của vị Sufi. Một ngày nọ, vị Sufi đi sang sông, và các mật thám đi theo, cẩn thận quan sát. Họ thấy vị Sufi gặp một phụ nữ ở bờ bên kia sông. Vị Sufi trải tấm khăn ra và tựa đầu vào lòng bà trong khi người phụ nữ vuốt ve đầu ông và đưa thức uống cho ông. Các mật thám rất vui mừng khi phát hiện ra điều gì đó có thể buộc tội ông và vội vã về tâu lại với nhà vua. Nhà vua nắm lấy cơ hội này và đối chất vị Sufi, rằng: “Ngài đã làm gì ở đó? Ngài là chân tu hay chỉ là giả mạo?” Vị Sufi bình tĩnh trả lời: “Xin đừng nói như thế, nếu không ngài sẽ hối hận. Hãy đi với tôi, và tôi sẽ cho ngài thấy những gì tôi đã làm.” Ông đưa nhà vua đến bờ sông, và người phụ nữ đó xuất hiện – một bà lão đeo kính với một bình trà. Đó là mẹ của vị Sufi.

Những samskara mà chúng ta mang theo làm méo mó suy nghĩ của chúng ta, dẫn đến sự hiểu lầm. Chúng ta tô điểm cho cuộc sống của mình hoặc làm cho cuộc sống của mình trở nên khốn khổ vì ảnh hưởng của mức độ hiểu biết hoặc hiểu lầm của chúng ta. Nhưng chúng ta có thể làm chệch hướng tác động của samskara trước khi chúng hình thành bằng suy nghĩ đúng đắn, dẫn đến hiểu biết đúng đắn. Với sự hiểu biết, chúng ta hiếm khi hình thành dấu ấn dù là nhỏ – đặc biệt là những dấu ấn tiêu cực.

Khi một vấn đề nảy sinh, hãy dừng lại thay vì phản ứng. Sự dừng lại này cho bạn không gian để suy nghĩ thông suốt trước khi trái tim bạn bị ảnh hưởng. Bạn sẽ có thể thông cảm với người gây phiền muộn cho mình và buông bỏ vấn đề. Sau đó, bạn sẽ cảm thấy được giải phóng ở bên trong. Tương tự như vậy, sự hiểu biết của bạn về bản chất – cách mọi thứ vận hành trong cuộc sống – sẽ trở nên dễ dàng hơn. Sự hiểu biết thực sự sẽ dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn. Ngược lại, một người có xu hướng không hiểu sẽ liên tục không hiểu hoặc thậm chí cố tình tìm ra những góc độ mới để không hiểu. Hiểu biết đúng đắn phải được hỗ trợ bởi cách tiếp cận trung thực với cuộc sống.

Một người hiểu biết sẽ hành động theo yêu cầu của tình huống cụ thể. Không có phản ứng nào giống nhau vì mỗi trường hợp sẽ là duy nhất. Babuji đã viết trong bình giảng của Ngài về Chân ngôn 9 rằng, các mối quan hệ của thiên nhiên biểu hiện theo nhiều cách khác nhau và các mối quan hệ của chúng ta cũng phải phản ánh tương tự các yêu cầu đa dạng của mỗi tình huống duy nhất. Một người hiểu biết sâu sắc không bao giờ giáo điều, hành xử theo một khuôn mẫu trong mọi điều kiện. Một người hiểu biết vượt ra ngoài giáo điều và các quy tắc cứng nhắc. Họ sẽ thích thú sự linh hoạt và tự do. Có sự khác biệt lớn giữa việc hành động, làm theo và tuân theo xuất phát từ sự hiểu biết đúng đắn và nhận thức đúng đắn so với việc làm như vậy mà không có sự hiểu biết hoặc nhận thức.

Hơn nữa, với sự hiểu biết, một người sẽ có thể làm chệch hướng căng thẳng và cảm giác tội lỗi, nhờ đó bảo vệ bản thân khỏi sự hóa đá của samskara. Làm sao ý chí tự do có thể song hành với một lối sống khuôn mẫu, giáo điều? Nếu không có ý chí tự do, sự giải thoát là vô nghĩa. Một cuộc sống giáo điều là đi ngược với một cuộc sống thánh thiện. Một cuộc sống thánh thiện là được sống hoà hợp với lương tâm của trái tim. Chủ nghĩa giáo điều xuất phát từ một cuộc sống được điều khiển bởi cái tôi, giống như niềm kiêu hãnh khi nhận diện với một tôn giáo hoặc một cộng đồng cụ thể.

Đôi khi, hiểu biết có thể là một gánh nặng. Hãy xem xét trường hợp vào những thế kỷ trước những người Ấn Độ và Châu Phi bị bắt làm nô lệ bị đưa khỏi quê hương của họ đến một nơi mà họ không hề biết hoặc không hề có ý niệm gì. Hãy tưởng tượng sự khác biệt giữa mức độ căng thẳng của họ trong suốt hành trình dài trên biển và mức độ căng thẳng của những kẻ bắt giữ họ. Hiểu được mục đích chuyến đi của họ chắc chắn sẽ dẫn đến nhiều căng thẳng hơn nữa! Vì vậy, chúng ta phải đánh giá cả những hậu quả tích cực và tiêu cực của nhận thức. Trên quan điểm theo đuổi lối sống yoga, hiểu biết giúp chúng ta thấy được sự vô ích của việc bạo hành. Bằng cách trở nên thông cảm và yêu thương, chúng ta có thể dễ dàng nhìn nhận quan điểm của người khác, và do đó chúng ta không thể phạm tội hoặc bạo lực.

Tương tự như vậy, một người hiểu biết sẽ thấy giá trị của việc tha thứ. Cuối cùng, một người hiểu biết sẽ thấy giá trị của việc sống một cuộc sống có kỷ luật, một cuộc sống học hỏi, và một người như vậy sẽ trở thành một shishya (đệ tử) toàn hảo. Thiền với sự hỗ trợ của pranahuti (dòng truyền) có thể giúp chúng ta phát triển suy nghĩ đúng đắn và hiểu biết đúng đắn. Tiếc là, cũng đúng khi pranahuti có thể giúp một tên trộm trở thành một tên trộm hoàn hảo nếu gánh nặng u ám của những khuynh hướng tiêu cực thống trị ý thức của anh ta. Đây là lý do tại sao Heartfulness nhấn mạnh đến sự cần thiết phải trở nên thuần khiết và giản đơn bằng cách loại bỏ những nhiễm ô và phức tạp. Trải nghiệm kết quả của việc thực hành có kỷ luật, người ta có thể tăng cường thực hành vì niềm vui thuần túy thay vì sự ép buộc hoặc kiểm soát (mặc dù ban đầu người ta có thể được hưởng lợi ích từ mức độ kiểm soát nào đó).

Một khía cạnh khác của khả năng thấy là sự chú ý và quan sát, có thể rèn luyện được. Tốt nhất là nên bắt đầu rèn luyện điều này từ khi còn nhỏ. Khi trẻ còn nhỏ, hãy hỏi trẻ rằng chúng nhìn thấy gì bằng những câu hỏi như, “Con nhìn thấy gì ở cánh đồng này? Con nhìn thấy gì trên bông hoa này? Bông hoa này có bao nhiêu màu? Có bao nhiêu cánh hoa? Những đặc điểm khác của bông hoa là gì?” Hãy rèn luyện cho trẻ nhìn sâu hơn. “Hôm nay mặt trời mọc lúc mấy giờ? Hãy xem ngày mai mặt trời có mọc vào giờ này không! Mặt trời mọc ở hướng nào? Mặt trời lặn ở hướng nào? Mặt trăng mọc khi nào? Khi nào mặt trăng tròn và khi nào mặt trăng khuyết?” Hãy để trẻ quan sát bằng mắt thường. Khi trẻ đến nhà ai đó, nhà bạn bè hoặc trường học, hãy hỏi trẻ, “Cửa nhà họ ở hướng nào? Con vào nhà từ hướng bắc, nam, đông hay tây? Ghế sofa của họ màu gì? Trần nhà màu gì? Có bao nhiêu cửa sổ?” Trẻ em có thể được rèn quan sát những điều như vậy.

Sau đó, từ những gì có thể nhìn thấy, bạn có thể chuyển sang những gì có thể nghe thấy: “Sáng nay con có nghe thấy tiếng chim nào không? Con đã nghe thấy bao nhiêu tiếng chim hót?” Tiếp tục để quá trình rèn luyện của trẻ phát triển, chuyển sang lĩnh vực cảm xúc. “Con chim đó vui hay buồn? Nó là con trống hay con mái?” Sau đó, bất cứ khi nào có thể, hãy hỏi trẻ, “Con cảm thấy thế nào ở bên trong? Con vui vẻ, buồn bã hay không cảm thấy gì cả? Khi con cảm thấy tồi tệ, con cảm thấy thế nào trong lòng? Nó nặng nề hay nhẹ nhõm?” Những câu hỏi như vậy sẽ chuẩn bị cho trẻ cảm nhận mọi thứ ở những cấp độ ngày càng sâu hơn.

Trong thiền, chúng ta rèn luyện bản thân để trở nên tỉnh thức hơn, linh lợi hơn, nhạy cảm hơn và nhạy bén hơn, với nhiều sắc thái tinh tế hơn. Ví dụ, trong quá trình hành thiền, màu sắc mà chúng ta quan sát, cảm xúc mà chúng ta thu nhận, suy nghĩ mà chúng ta chứng kiến, rung động mà chúng ta cảm thấy và trạng thái mà chúng ta trải qua sau khi thiền xong. Sau khi thiền xong, hãy chia sẻ những quan sát này với người dẫn thiền của bạn để họ có thể kết nối các sự kiện và kết luận, “Bất cứ khi nào tôi làm theo cách này, đây là phản hồi mà tôi nhận được.” Khi đó, chúng ta có thể thiết lập mối liên hệ giữa công việc và kết quả của nó. Chúng ta có thể cảm nhận môi trường giống như chúng ta quan sát cảm xúc của người khác. Chúng ta cảm thấy thế nào trong một không gian cụ thể? Tất cả quá trình rèn luyện này chuẩn bị cho chúng ta có một tầm nhìn giống như chùm tia laser yêu thương từ bên trong. Tình yêu là yếu tố thiết yếu trong việc thấy. Chúng ta không bao giờ có thể tìm hiểu ai nếu thiếu vắng tình yêu.

Hầu như tất cả chúng ta đều trải qua bài tập này để nhận thức về vị thầy của mình với những mục đích khác nhau. Việc nhìn nhận luôn ở cấp độ của chúng ta. Ví dụ, có hoàng hôn, nhưng những người ở thung lũng không thể nhìn thấy hết được vì nó không lặn ở đường chân trời. Ngược lại, một người ở trên đỉnh núi sẽ có tầm nhìn tuyệt đẹp. Độ cao tạo nên sự khác biệt đó. Leo lên nấc thang ý thức, nơi luân xa là những bậc thang, sự tăng tiến dần của chúng ta mang lại sự sáng tỏ dần về tầm nhìn của chúng ta, và chúng ta trải nghiệm darshan ở nhiều cấp độ khác nhau.

Khi bạn ở bên thầy, bạn phải hoàn toàn ở bên ngài. Nhưng thật không may, ngày nay, mọi thứ đều làm chúng ta mất tập trung, với điện thoại là thứ gây mất tập trung số một. Một khi bạn không còn ham muốn, không còn sự mất tập trung và không còn samskara, có lý do gì để bạn không thể tận hưởng trọn vẹn lợi ích từ sự hiện diện của ngài? Khi bạn ở bên ngài, những phẩm tính cần có là sự tôn kính, tình yêu, sự khiêm nhường và cởi mở. Nuôi dưỡng ham muốn, thể hiện chúng thông qua cầu nguyện, hoặc thậm chí chỉ giữ chúng trong lòng cũng sẽ ngăn bạn trải nghiệm darshan của ngài. Lời cầu nguyện thể hiện mọi nhu cầu, và dù sao chăng nữa thì bạn có thể cầu xin ai khác? Nhưng sẽ là quá đáng nếu bạn mặc cả: “Thượng đế ơi, nếu Ngài làm điều này cho con, con sẽ chi hàng trăm triệu, con sẽ xây thật nhiều nhà cho người vô gia cư, con sẽ dâng chadar[1] lên tượng của Ngài...” Việc cầu xin tình yêu, sự tôn kính hoặc khiêm nhường từ Thượng đế cũng tô điểm thêm cho cái tôi của bạn. Điều đó chẳng khác gì cầu xin Thượng đế ban cho ngày càng nhiều của cải với lý do là nuôi sống nhiều người đói hơn hoặc trang bị nhà ở cho nhiều người vô gia cư hơn. Sự hối lộ này dường như không thể ngăn được. Hãy nghĩ xem, nếu một người sẵn sàng hối lộ Thượng đế, họ sẽ cư xử thế nào với các viên chức chính phủ và chính trị gia? Chúng ta chỉ có thể thương hại cho người đó.

Khi bạn mang theo hành lý ham muốn đến gặp thầy để thỏa mãn những ham muốn của mình, bạn sẽ không có được darshan thực sự của thầy. Điều kiện tiên quyết đầu tiên cho darshan là sự thuần khiết. Thứ hai, bạn phải hoàn toàn tĩnh lặng khi ở bên ngài, với pratyahara hoàn hảo (thu rút các giác quan vào bên trong). Nhưng khi đó, bạn cũng phải cộng hưởng với ngài. Ví dụ, nếu bạn muốn tham gia một nhóm nhạc, bạn phải chơi cùng một bản nhạc mà họ đang chơi. Bạn không thể chơi giai điệu của riêng mình và mong đợi hòa âm với họ. Nhạc phải phù hợp. Nếu không, nó sẽ chỉ là tiếng ồn, và ngay cả khi bạn nhận được darshan của ngài, nó sẽ bị lãng phí.

Khi Krishna cho Arjuna thấy Vishwaroop – diện mạo hủy diệt của ngài – ngài đã cho Arjuna thấy rằng công việc phá hủy đã hoàn tất. Thông điệp gửi đến Arjuna là, “Công việc đã hoàn thành. Bây giờ, con chỉ cần hoàn tất các bước cuối cùng.” Tuy nhiên, khi nhìn thấy diện mạo hủy diệt của Krishna, Arjuna sợ hãi và cầu xin Krishna quay trở lại diện mạo thân thiện và quen thuộc hơn của ngài.

Ngoài ra, Bhishma và Drona, những linh hồn tiến hoá ở phía bên kia chiến tuyến, đã nhìn thấy diện mạo này của Krishna và vô cùng kính sợ. Nhưng liệu họ có thực sự kính sợ không? Nếu có, họ đã hạ vũ khí và nói, “Không cần phải giao chiến”. Nếu Vishwaroop của Krishna thuyết phục được Arjuna cầm vũ khí, nó cũng phải thuyết phục được Bhishma và Drona hạ vũ khí xuống. Darshan này không tự động ban cho bất kỳ ai trí tuệ, ngay cả Arjuna. Mặc dù khi đó ông đã sẵn sàng chiến đấu, ông vẫn nói rằng, “Con không thể chịu đựng được khi nhìn thấy diện mạo này”. Do đó, việc nhìn thấy diện mạo thực của Thượng đế không tự động giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Bạn có thể cảm thấy hài lòng khi nói rằng, “Tôi đã có được darshan của Thượng đế”, hoặc “Tôi đã có được darshan của murti” (hình ảnh thiêng liêng của một vị thần), hoặc “Tôi cảm thấy một số phẩm tính thiêng liêng” – nhưng vẫn còn nhiều điều phải đạt đến. Darshan của Thượng đế chỉ là một trải nghiệm khác mà bạn có thể có. Nó chỉ là tạm thời. Bạn sẽ làm gì với trải nghiệm đó? “Tôi đã thấy Thượng đế”. Vậy thì sao? Bạn đã trở thành thứ gì đó vì nó chưa? Để cộng hưởng với thực tại của một Nhân cách vĩ đại, bạn phải chạm đến cùng một thực tại đó ở bên trong chính mình.

Để trả lời một lá thư, Babuji đã từng viết: “Thật tốt khi bạn muốn có darshan của Maha-purushas [Những Nhân cách vĩ đại]. Tốt hơn nữa là cố gắng có darshan của chính mình.” Về sự bộc lộ của Tự ngã, ai là người thấy và cái gì được thấy? Chúng ta thường sử dụng từ darshak để chỉ người thấy. Trong cách sử dụng thông thường, darshak thường mô tả người xem hoặc khán giả quan sát một thứ gì đó. Là chúng sinh hữu tình, tất cả chúng ta đều là darshak vì chúng ta đều là người thấy: chúng ta nhận thức, nhìn, nghe, trải nghiệm và hiểu. Yoga sử dụng một từ chính xác hơn – drashta. Drashta đề cập cụ thể đến purusha hay linh hồn, là nhân chứng thực sự bên trong. Không giống như từ darshak, mà chúng ta có xu hướng sử dụng cho cả các giác quan vật lý, các thân vi tế và linh hồn, drashta chỉ đề cập đến khả năng chứng kiến ​​của linh hồn – không phải mắt, tâm trí hoặc các chức năng khác.

Linh hồn là chủ thể thuần túy – chủ thể chứng kiến ​​mọi khách thể tri thức và kinh nghiệm. Mọi thứ mà chủ thể nhận thức, kinh nghiệm hoặc biết đều nằm trong phạm trù “khách thể” – cái có thể nhận thức, cái có thể kinh nghiệm và cái có thể biết. Vì là chủ thể thuần túy, linh hồn không bao giờ có thể trở thành khách thể tri thức, kinh nghiệm hoặc kiến ​​thức. Trong trường hợp đó, làm sao chúng ta có thể có được darshan của linh hồn?

Cũng giống như mặt trời phát ra ánh sáng phản chiếu các vật thể, khiến chúng ta có thể nhìn thấy chúng, ý thức của linh hồn chiếu sáng các khách thể kiến ​​thức, cho phép người thấy thấy chúng. Thứ được chiếu sáng bởi ánh sáng ý thức này được gọi là “phạm trù ý thức”. Thông qua ánh sáng của ý thức, các khách thể cư trú trong phạm trù này trở nên quen thuộc với chủ thể. Trong yoga, phạm trù này được gọi là chitta, chứa manas (tâm trí), buddhi (trí năng), ahankara (bản ngã, cái tôi) và chit (ánh sáng của ý thức). Mức độ mà chúng ta có thể nhận thức các khách thể trong phạm trù ý thức (chitta) phụ thuộc vào mức độ mà ánh sáng của linh hồn bị che khuất bởi samskara, vrittis (biến trạng), cái tôi và những nhiễm ô khác.

Nhiều người nhầm lẫn linh hồn và bản ngã. Câu hỏi nổi tiếng “Tôi là ai?” thường được đặt ra để giúp những người khao khát nhận ra rằng họ không phải là cơ thể hay tâm trí, mà là linh hồn. Tuy nhiên, cơ sở của câu hỏi này là sai. Kết luận, “Tôi là atman,” hay “Tôi là linh hồn,” là không đúng; nó cũng sai như suy nghĩ “Tôi là cơ thể,” bởi vì chỉ có bản ngã mới nhận diện là “tôi,” bất kể “tôi” đó ám chỉ cơ thể, tâm trí hay linh hồn.

Bản ngã là cảm giác về “tôi”. Patanjali gọi nó là asmita Tôi hiện hữu”. “Tôi” này phải được nhận ra là một bản ngã giả mạo vì nó luôn là khách thể trải nghiệm, không bao giờ là chủ thể. Mặc dù chúng ta có những suy nghĩ như “Tôi làm”, “Tôi nghĩ” và “Tôi hiện hữu”, những suy nghĩ này là khách thể được chứng kiến ​​bởi chủ thể đích thực, tức là linh hồn. Do đó, bất kỳ ý tưởng nào về bản thân cũng phải được coi là khách thể, ngay cả khi nó tạo ra ảo tưởng rằng “Tôi là người thấy” hoặc “Tôi là người kinh nghiệm”.

Do vô minh (avidya), hay thiếu tỉnh thức, mà chúng ta nhầm lẫn cái “tôi” này với chủ thể đích thực của kinh nghiệm linh hồn. Nếu một thứ gì đó có thể được biết hoặc được kinh nghiệm bao gồm cả cảm giác về “tôi” thì nó phải được hiểu là một khách thể kiến ​​thức, chứ không phải là chủ thể. Tóm lại, linh hồn là bản chất của chúng ta, chứ không phải là cảm giác về “tôi”.

Khi chitta (phạm trù ý thức) bị ngập tràn bởi cái tôi, mọi khách thể khác trong phạm trù này sẽ được nhìn nhận trong mối liên hệ với “tôi”. Đó là định nghĩa về sự đồng hoá: nhìn mọi thứ theo cách chúng liên quan đến bản thân mình. Điều thiết yếu để vượt qua sự đồng hoá là thường niệm, đồng nghĩa với việc thực hành AEIOU. Có ba phương pháp cơ bản để thực hành thường niệm:

1. Làm mọi việc trong sự tưởng nhớ Thượng đế.

2. Làm mọi việc như là sự tận hiến dâng lên Thượng đế.

3. Làm mọi việc nhân danh Thượng đế.

Bằng việc thực hành những phương pháp này, sự hiện diện của Thượng đế bắt đầu thấm vào phạm trù ý thức của chúng ta, và thay vì đồng hoá hành động và kinh nghiệm của chúng ta với bản thân mình, chúng ta bắt đầu đồng hoá chúng với Thượng đế hoặc Master. Kết quả là, diện mạo giả của cái “tôi” bắt đầu mất đi sức mạnh của nó.

Liệu sự mất đi cái “tôi” có làm cho chúng ta thấy được người thấy không? Yoga Sutra 1.3 của Patanjali nêu rõ:

Khi đó [khi sự hành hoạt của tâm trí dừng lại], Người thấy sẽ an trú trong bản chất của chính nó.

Chìa khóa cho khẳng định này là hiểu được rằng bản chất của người thấy là vô minh. Người thấy an trú trong bản chất của chính nó không ý thức được về chính nó (vì chủ thể không thể nhìn thấy chính nó) cũng không ý thức được diện mạo giả, cái tôi tan biến trong sự tưởng nhớ Thượng đế. Babuji đã từng có một ứng khẩu sâu sắc, rằng khi Ngài thốt ra từ “tôi”, Ngài không biết nó ám chỉ ai. Darshan của Tự ngã không gì khác ngoài sự quên mình, một trạng thái mà người thấy hoàn toàn mất hút đối với chính nó. Babuji phản đối việc thực hành hỏi “Tôi là ai?” Thay vì cố gắng biết mình, Ngài gợi ý quên mình. Nhưng để quên mình, cần có một trung tâm, đó là lý do tại sao chúng ta thực hành thiền và thường niệm.

Điều quan trọng cần lưu ý là khi quên mình, người thấy ​​vẫn chứng kiến ​​các đối tượng của thế gian và những sinh linh khác; chỉ có cảm giác về bản sắc cá nhân tan biến, đồng thời sự hình thành và làm sâu sắc thêm samskara cũng chấm dứt.

Thông thường, chúng ta hiểu lầm guru-darshan là thấy ​​diện mạo của guru trong khi thiền. Khái niệm này chỉ đúng trong phạm vi chúng ta coi diện mạo thật của guru là vô hình tướng. Cũng giống như darshan của Tự ngã là trạng thái quên mình, tan biến hoặc phủ nhận, darshan của guru có nghĩa là tan hòa vào cái Tuyệt đối vô hình tướng, không có bất kỳ đặc điểm hạn chế nào như danh xưng hoặc thuộc tính. Trong layavastha hay trạng thái hợp nhất với Master, vấn đề “thấy” không nảy sinh, vì trong sự hợp nhất không thể có mối quan hệ khách thể-chủ thể. Đó là trạng thái darshan tối thượng.

Yêu thương và trân trọng,

Kamlesh

Thông điệp kỷ niệm 69 năm ngày sinh của Pujya Daaji, Kanha Shanti Vanam, 28 tháng 9 năm 2024


[1] Chadar là mảnh vải được dâng lên điện thờ thánh. Nó là biểu tượng của lòng sùng tín và kính ngưỡng, và được cho là mang theo những lời cầu nguyện và mong muốn của tín đồ dâng lên một vị thánh. 

Nguồnhttps://cdn-prod-static.heartfulness.org/September2024_Bhandara_Message_Digital_ef0c3a5d9d.pdf